Người thứ ba ngay tình
tham gia trong các giao dịch được hiểu là người tại thời điểm giao dịch người
này không có cơ sở để biết và không buộc phải biết việc tham gia vào giao dịch
là không phù hợp với quy định pháp luật. Điều đó có nghĩa là khi tham gia vào
giao dịch, người này hoàn toàn tin rằng người giao dịch là người có quyền giao
dịch và giao dịch đáp ứng các điều kiện để giao dịch có hiệu lực.
Trong trường hợp
người thứ ba ngay tình, có được tài sản thông qua giao dịch dân sự thì giao dịch
dân sự đó có hiệu lực hay không ? Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì bảo vệ
như thế nào ?
Bộ luật dân sự năm 2015
(BLDS), quy định rõ hướng giải quyết trong giao dịch dân sự với người thứ ba
ngay tình. Cụ thể như sau:
Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu
1. Trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng
ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác
lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại
Điều 167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người
thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao
dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải
đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay
tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu
tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
3. Chủ sở hữu không có
quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người
này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi
kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ
ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Điều 167. Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu từ người chiếm hữu ngay tình.
Chủ sở hữu có quyền đòi
lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong
trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng
không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng
này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản
đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu.