Luật Lâm Vinh, dịch vụ tư vấn luật tại bình dương, tư vấn dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự, thương mại, tranh chấp dân sự, thừa kế, dịch vụ thành lập doanh nghiệp

Recent Comments

Quy tắc 05 năm và lý do từ chối bảo hộ nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ

                               

Để được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, cá nhân, tổ chức phải thực hiện nhiều thủ tục, trải qua nhiều giai đoạn, và trong đó, khâu quan trọng nhất vẫn là thẩm định nội dung nhãn hiệu. Có hai kết quả có thể xảy ra ở giai đoạn này, một là Cục SHTT (gọi tắt là Cục) sẽ đồng ý cấp văn bằng bảo hộ (nộp phí theo quy định) hoặc Cục ra văn bản từ chối bảo hộ nhãn hiệu. Luật Lâm Vinh cũng đã có bài viết về những điều doanh nghiệp cần làm khi bị Cục từ chối bảo hộ Bấm để xem bài viết liên quan

Một trong những căn cứ mà Cục thường sử dụng để từ chối bảo hộ nhãn hiệu xin đăng ký là quy định tại Điểm h Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT về khả năng phân biệt của nhãn hiệu, quy định như sau: "Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 95 của Luật này ."

Thoạt nhìn thì căn cứ từ chối trên có vẻ không có vấn đề nhưng sự tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau mà chưa có hồi kết.

1. Về thời hạn bảo hộ nhãn hiệu.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm (Khoản 6 Điều 93 Luật SHTT)

.Khoản 2 Điều 94 Luật SHTT quy định: “Để gia hạn hiệu lực Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, chủ văn bằng bảo hộ phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực.”.

Điểm a Khoản 1 Điều 95 Luật SHTT quy định văn bằng bảo hộ hết hiệu lực nếu “Chủ văn bằng bảo hộ không nộp lệ phí duy trì hiệu lực hoặc gia hạn hiệu lực theo quy định”.

Theo các quy định đã viện dẫn nêu trên, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu sẽ hết hiệu lực nếu hết thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu không tiến hành gia hạn hoặc các trường hợp khác quy định tại Điều 95 Luật SHTT.

Vậy căn cứ nào để đưa ra quy tắc 05 năm thể hiện tại Điểm h Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT.

2. Quy tắc 05 năm.

Quy tắc này được Cục SHTT áp dụng để nêu lý do từ chối bảo hộ, và nhãn hiệu của cá nhân, tổ chức bị từ chối có thể rơi vào 1 trong 3 trường hợp sau:

- Doanh nghiệp nộp đơn đăng ký khi nhãn hiệu được bảo hộ chưa hết thời hạn 05 năm kể từ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hộ, thời điểm hoàn thành việc thẩm định nội dung cũng nằm trong khoảng thời gian đã nêu;

- Doanh nghiệp nộp đơn khi nhãn hiệu bảo hộ đã hết nhưng chưa quá 05 năm và thời điểm hoàn thành việc thẩm định nội dung đã qua 05 năm hoặc vừa hết 05 năm;

- Doanh nghiệp nộp đơn khi nhãn hiệu hết thời hạn 05 năm nhưng chủ đơn có nộp lại hồ sơ đăng ký nhãn hiệu;

Một lý do được đưa ra để giải thích cho quy tắc 05 năm chính là để bảo hộ nhãn hiệu khi thời hạn đã hết nhưng khả năng vẫn được người tiêu dùng đón nhận, lưu hành trên thị trường. Khó để đưa ra khái niệm chính xác cho nhận định vừa nêu, nhưng hiểu nôm na là nhận thức, nhận diện, đánh giá, hoặc thị hiếu, quan điểm tiêu dùng của người tiêu dùng đối với sản phẩm/hàng hóa đã được bảo hộ nhưng hết hạn.

Ví dụ: Sản phẩm của công ty A vẫn được sản xuất, lưu hành trên thị trường, và nhận được đánh giá, phản hồi tích cực của khách hàng trong suốt quá trình sản xuất, tiêu thị. Mặc dù thời hạn bảo hộ nhãn hiệu đã hết nhưng quan điểm của các nhà làm luật vẫn dự liệu khoảng thời gian 05 năm để đánh giá tổng quan về nhãn hiệu đó trước khi chấp nhận một nhãn hiệu đăng ký bởi cá nhân, tổ chức mới cho cùng sản phẩm, nhãn hiệu đó.

Quy định nêu trên nhằm bảo vệ người tiêu dùng, tránh khả năng lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc thương mại. Đây là một tư duy đúng nhưng cần có sự nhận thức và điều chỉnh lại phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội (Luật SHTT ban hành 2006), tránh lạc hậu so với thế giới xung quanh và mặt khác đang trở thành trở ngại gây cản trở một cách bất hợp lý đến quá trình xác lập quyền đối với nhãn hiệu.

Đặt giả sử có yếu tố trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn, khi doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu phải chờ thêm thời hạn 05 năm kể từ ngày hai nhãn hiệu nói trên hết hạn mới được đăng ký, xem xét cấp giấy chứng nhận bảo hộ, trong khi nhãn hiệu hết hiệu lực mà không cần quan tâm nhãn hiệu có được chủ sở hữu gia hạn hay không hoặc sản phầm/hàng hóa còn lưu hành trên thị trường hay không. Luật SHTT cũng không quy định các quyền bảo lưu đăng ký lại hoặc quyền ưu tiến đến ngày cuối cùng của thời hạn.

Quy tắc 05 năm quy định tại Điểm h Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT, nếu tiếp cận ở nhiều góc nhìn khác nhau thì đang gây bất lợi cho doanh nghiệp khi tiến hành thủ tục đăng ký nhãn hiệu, đặc biệt trong xu thế ngày càng phát triển của kinh tế, toàn cầu hóa, và không dựa trên bất cứ căn cứ pháp lý nào có trong các quy định pháp luật hiện hành.

Hotline: 096868.2478

Share:
Chào mừng bạn đến với Website của Đặng Quốc Vinh. Chúc bạn một ngày tốt lành

Translate

Bài viết mới nhất

Đặt câu hỏi

Tên

Email *

Thông báo *

z